Lịch sử phát triển
NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN VÀ NHỮNG THÀNH TỰU CỦA
NGÀNH THỐNG KÊ VIỆT NAM QUA TỪNG THỜI KỲ
I.
NHỮNG CHẶNG ĐƯỜNG LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN:
Ngay
trong thời gian đầu cách mạng mới thành công, trong muôn vàn khó khăn của thời
kỳ chống thù trong giặc ngoài, ngày 6 tháng 5 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh,
Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã ký sắc lệnh số
61/SL quy định bộ máy tổ chức của Bộ quốc dân kinh tế gồm các phòng, ban, nha
trực thuộc, trong đó có Nha Thống kê Việt Nam. Để ghi nhớ sâu sắc công ơn của
Bác Hồ vĩ đại đối với quá trình xây dựng và trưởng thành của ngành thống kê, để
phù hợp với thực tế lịch sử, và được sự đồng ý của Thủ tướng Chính phủ
nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Ngành Thống kê đã lấy ngày 6 tháng 5
năm 1946 là ngày thành lập ngành Thống kê Việt Nam.
Chiểu
theo Sắc lệnh 61/SL ngày 6 tháng 5 năm 1946, Bộ trưởng Bộ Quốc dân Kinh tế đã
ký Nghị định ngày 28 tháng 5 năm 1946 về tổ chức Nha Thống kê Việt Nam với
những nội dung chính sau đây :
Điều thứ nhất : Nay tổ chức một Nha Thống kê Việt Nam phụ thuộc vào Bộ Quốc dân
Kinh tế và đặt dưới quyền điều khiển của Giám đốc do sắc lệnh cử theo lời đề
nghị của Bộ trưởng Bộ Quốc dân Kinh tế.
Điều thứ hai : Nhiệm vụ của Nha Thống kê Việt Nam định như sau này:
1. Sưu tầm và thu thập những tài liệu và những con số có liên quan đến vấn đề
xã hội, kinh tế hay văn hoá.
2. Xuất bản những sách về thống kê
3. Kiểm soát các công ty bảo hiểm Việt Nam hay hải ngoại.
Điều thứ 3: Nha Thống kê Việt Nam có thể liên lạc thẳng với các cơ quan Thống
kê của các Bộ, các kỳ và các tỉnh và các công sở khác để sưu tầm tài liệu cần
thiết.
Điều thứ tư: Nha Thống kê gồm có ba phòng, nhiệm vụ định sau đây:
1.Phòng
nhất (phòng Hành chính) coi về nhân viên, kế toán, vật liệu, lưu trữ công văn,
xuất bản các sách báo.
2.Phòng
nhì: Thống kê dân số, văn hoá, chính trị
3.Phòng
ba: Thống kê kinh tế, tài chính
Ngày
7 tháng 6 năm 1946 theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Quốc dân Kinh tế, Chủ tịch Hồ
Chí Minh ký Sắc lệnh số 98/SL cử ông Nguyễn Thiệu Lâu giữ chức Giám đốc Nha
Thống kê Việt Nam.
Ngày
25 tháng 4 năm 1949 Chủ tịch Hồ Chí Minh ký 2 sắc lệnh:
Sắc lệnh số 33/SL sát nhập Nha Thống kê Việt Nam vào Phủ Chủ tịch
Sắc lệnh số 34/SL cử ông Nguyễn Thiệu Lâu giữ chức Giám đốc Nha Thống kê trong
Chủ tịch phủ.
Ngày
1 tháng 7 năm 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh 124/SL bãi bỏ Sắc lệnh số
33/SL ngày 25 tháng 4 năm 1949 và Sắc lệnh số 34/SL ngày 25 tháng 4 năm 1949,
quyết định “ Một tổ chức tạm thời để theo dõi công việc thống kê sẽ do
Nghị định Thủ tướng Chính phủ ấn định”.
Ngày
9 tháng 8 năm 1950, Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng thay mặt Thủ tướng Chính phủ,
ra Nghị định số 38/TTg thành lập phòng Thống kê trong Văn phòng Thủ tướng phủ
do ông Lương Duyên Lạc làm trưởng phòng. Phòng Thống kê có nhiệm vụ:
Thu thập và xếp đặt những tài liệu thống kê của các Bộ và các Uỷ ban hành chính
kháng chiến địa phương.
Giúp các Bộ và các Uỷ ban hành chính kháng chiến tổ chức và
hướng dẫn theo dõi công tác thống kê.
Ngày
20 tháng 2 năm 1956, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Điều lệ số 695/TTg về tổ
chức Cục Thống kê Trung ương, các cơ quan thống kê địa phương và các tổ chức
thống kê các Bộ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Trong Điều lệ 695/TTg có
ghi:
Nay
thành lập Cục Thống kê Trung ương trong Ủy ban Kế hoạch Nhà nước của nước Việt
Nam dân chủ cộng hoà, các Ban Thống kê địa phương, các tổ chức thống kê ở các
Bộ, các cơ quan xí nghiệp.
Cục
Thống kê Trung ương và các cơ quan Thống kê ở địa phương là một hệ thống
thống nhất, tập trung.
Cục
Thống kê Trung ương trong Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, nước Việt Nam dân chủ cộng
hoà là một cơ quan của Nhà nước để lãnh đạo thống nhất và tập trung mọi việc
thống kê và kế toán trong nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Nhiệm
vụ chủ yếu của Cục Thống kê Trung ương là sưu tầm, thu thập, nghiên cứu và đệ
trình Chính phủ những tài liệu thống kê chính xác, phân tích một cách khoa học
để có thể nêu được quá trình thực hiện kế hoạch Nhà nước, sự phát triển kinh tế
và văn hoá trong nước, những nguồn tài nguyên và cách sử dụng tài nguyên đó, tỷ
lệ phát triển của các ngành kinh tế, văn hoá và mức độ phát triển của từng ngành.
Cục
Thống kê Trung ương tạm thời gồm các phòng: Thống kê Tổng hợp; Thống kê Nông
nghiệp; Thống kê Công nghiệp, Vận tải; Thống kê Thương nghiệp Tài chính; Thống
kê Văn hoá, giáo dục, Y tế, Dân số, Lao động.
Ngày
8 tháng 4 năm 1957, Thủ tướng Chính phủ ra Nghị định số 142-TTg quy định lại tổ
chức, nhiệm vụ của các cơ quan thống kê các cấp các ngành, bãi bỏ Điều lệ
số 695- TTg ngày 20- 2- 1956.
Về
tổ chức thống kê : Bộ máy thống kê các cấp các ngành gồm có:
Cục
Thống kê Trung ương (Trong Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước)
Các
Chi cục Thống kê Liên khu, khu, thành phố, tỉnh.
Phòng Thống kê huyện, châu
Ban Thống kê xã.
Các tổ chức thống kê của các Bộ, các
ngành Trung ương và các cơ quan trực thuộc.
Cục
Thống kê Trung ương là cơ quan của Nhà nước phụ trách, lãnh đạo thống nhất và
tập trung mọi việc thống kê về kinh tế, tài chính, văn hoá, xã hội trong cả
nước.
Nhiệm
vụ chủ yếu của CụcThống kê Trung ương là sưu tầm, chỉnh lý, nghiên cứu, phân
tích những tài liệu điều tra thống kê cơ bản về các ngành kinh tế quốc dân, văn
hoá, xã hội, rồi đệ trình Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước và Chính phủ để làm căn cứ
hoặc tài liệu tham khảo để định các chính sách, lập kế hoạch và kiểm tra kế
hoạch.
Về
tổ chức Cục Thống kê Trung ương tạm thời gồm có các phòng: Thống kê Tổng hợp;
Thống kê Nông nghiệp; Thống kê Công nghiệp; Thống kê Xây dựng cơ bản; Thống kê
Thương nghiệp Tài chính; Thống kê Văn hoá, Giáo dục, Y tế, Dân số Lao động.
Ngày
21 tháng 12 năm 1960, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành quyết định số
15-NQ/TVQH về việc tách Cục Thống kê Trung ương ra khỏi Uỷ ban Kế hoạch Nhà
nước, thành lập Tổng cục Thống kê.
Đến
ngày 29 tháng 9 năm 1961, Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 131- CP quy
định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Thống kê. Theo Nghị
định này, Tổng Cục Thống kê là cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ có trách
nhiệm chỉ đạo tập trung và thống nhất toàn bộ công tác điều tra thống kê theo
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; bảo đảm hoàn thành tốt nhiệm
vụ sưu tầm, chỉnh lý phân tích các tài liệu thống kê có căn cứ khoa học về kinh
tế, văn hoá, xã hội, nhằm phục vụ cho các công tác quản lý nhà nước, lãnh đạo
và chỉ đạo công cuộc kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân.
Tổ
chức bộ máy của Tổng Cục Thống kê gồm có: 7 vụ và Văn phòng
Năm
1968, thực hiện Nghị quyết 02- CP của Chính phủ về tổ chức lại hệ thống thông
tin thống kê, Tổng cục Thống kê được Hội đồng Chính phủ quyết định thành lập
Cục Kỹ thuật tính toán, Vụ Tổ chức cán bộ, Vụ Phương pháp chế độ và Vụ Cân đối.
Ngày
5 tháng 4 năm 1974 Hội đồng Chính phủ đã ra Nghị định số 72-CP ban hành
điều lệ về tổ chức và hoạt động của Tổng cục Thống kê thay thế Nghị định số
131-CP ngày 29 tháng 9 năm 1961 của Hội đồng Chính phủ.
Tổng
cục Thống kê là cơ quan Trung ương thuộc Hội đồng Chính phủ, có nhiệm vụ tổ
chức và quản lý thống nhất công tác hạch toán và thống kê. Tổng cục Thống kê
thực hiện nhiệm vụ của mình trên cơ sở đường lối chính sách và các Chỉ thị,
Nghị quyết của Đảng và Nhà nước.
Về
tổ chức bộ máy có: 17 đơn vị cục, vụ thống kê chuyên ngành, văn phòng và 2 đơn
vị sự nghiệp.
Thực
hiện chỉ thị 45/TW của Ban Bí thư TW về tinh giản bộ máy, giảm nhẹ biên chế,
ngày 2/6/1979 Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 207/CP về tổ chức lại
bộ máy của cơ quan Tổng cục Thống kê gồm có 15 đơn vị: Vụ, Viện, Văn phòng và
Thanh tra.
Thực
hiện Thông báo số 46/TB-TW của Ban Bí thư TW và Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng về
việc sắp xếp lại tổ chức bộ máy của các cơ quan Đảng, Nhà nước và đoàn thể.
Ngày 11-5-1988 Hội đồng Bộ trưởng ký ban hành Quyết định số 81/HĐBT, quy định
lại số đơn vị trực thuộc Tổng cục giảm xuống còn 10 đơn vị vụ và Văn phòng.
Ngoài ra còn có 3 phòng trực thuộc, 2 đơn vị sự nghiệp, và 2 đơn vị sản xuất
kinh doanh.
Ngày
23/3/1994, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 23/CP quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Thống kê thay thế Nghị định số
72/CP ngày 5/4/1974 của Hội đồng Chính phủ.
Theo
Nghị định này, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục
Thống kê cơ bản giống như nội dung đã được đề cập ở Điều lệ của Nghị định 72/CP
ngày 5/4/1974 của Hội đồng Chính Phủ.
Tuy
nhiên tổ chức bộ máy của Tổng cục Thống kê được sắp xếp gọn hơn so với tổ
chức bộ máy của Tổng cục Thống kê quy định tại Điều lệ của Nghị định 72/CP ngày
05/4/1974 của Hội đồng Chính phủ. Cụ thể gồm:
Các đơn vị giúp Tổng cục trưởng thực hiện chức năng quản lý Nhà nước: có 12 đơn
vị vụ, Văn phòng và Thanh tra. Sau đó Chính phủ có quyết định thành lập thêm Vụ
Kế hoạch- Tài chính.
Các đơn vị sự nghiệp trực thuộc Tổng cục: có 4 đơn vị.
Các đơn vị sản xuất do Tổng cục Thống kê quyết định có: 2 đơn vị
Ngày
03/9/2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 101/2003/NĐ-CP quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Thống kê thay cho Nghị định
số 23/CP ngày 23/3/1994 của Chính Phủ.
Về
vị trí và chức năng: Tổng cục Thống kê là cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện một
số nhiệm vụ, quyền hạn quản lý Nhà nước về thống kê, tổ chức thực hiện hoạt
động thống kê và cung cấp thông tin thống kê kinh tế - xã hội cho các cơ quan,
tổ chức và cá nhân theo quy định của pháp luật; quản lý Nhà nước các dịch vụ
công và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể về đại diện chủ sở hữu phần
vốn của Nhà nước tại doanh nghiệp có vốn Nhà nước thuộc Tổng cục Thống kê quản
lý theo quy định của pháp luật.
Về
nhiệm vụ và quyền hạn: Tổng cục Thống kê chịu trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của cơ quan thuộc Chính phủ quản lý Nhà nước về ngành, lĩnh vực theo
quy định tại Nghị định số 30/2003/NĐ-CP ngày 01/4/2003 của Chính phủ quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan thuộc Chính phủ.
Về
hệ thống tổ chức của Tổng cục Thống kê:
Tổng
cục Thống kê được tổ chức theo ngành dọc, gồm có:
1.
Ở Trung ương có cơ quan Tổng cục Thống kê.
2.
Ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có Cục Thống kê trực thuộc Tổng cục
Thống kê.
3.
Ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có phòng Thống kê trực thuộc Cục
Thống kê tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương.
Về
cơ cấu tổ chức của cơ quan Tổng cục Thống kê :
a) Các tổ chức giúp Tổng cục trưởng thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn quản lý Nhà nước có các đơn vị: Vụ Hệ thống tài khoản quốc gia; Vụ Phương
pháp chế độ thống kê; Vụ Thống kê Tổng hợp; Vụ Thống kê Công nghiệp và Xây
dựng; Vụ Thống kê Nông, Lâm nghiệp và Thủy sản; Vụ Thống kê Thương mại, Dịch vụ
và Giá cả; Vụ Thống kê Dân số và Lao động; Vụ Thống kê Xã hội và Môi trường; Vụ
Hợp tác quốc tế; Vụ Tổ chức Cán bộ; Vụ Kế hoạch tài chính; Thanh tra; Văn
phòng
b) Các đơn vị sự nghiệp thuộc Tổng cục Thống kê có các đơn vị sau:
Viện Nghiên cứu khoa học thống kê; Trung tâm Tin học thống kê; Trung tâm Tư
liệu thống kê; Tạp chí Con số và Sự kiện; Trường Cao đẳng thống kê; Trường
Trung học thống kê II; Trung tâm Tin học thống kê khu vực II; Trung tâm Tin học
thống kê khu vực III.
c) Các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc Tổng cục Thống kê có các đơn vị sau:
Nhà Xuất bản Thống kê; Công ty Phát hành Biểu mẫu Thống kê; Xí nghiệp in Thống
kê Thành phố Hồ Chí Minh.
II.
NHỮNG THÀNH TỰU CỦA NGÀNH THỐNG KÊ VIỆT NAM
Trong
quá trình xây dựng phát triển, ngành thống kê Việt Nam đã từng bước trưởng
thành, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc theo yêu cầu
của Đảng và Nhà nước qua từng giai đoạn.
Trong
9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1946- 1954), trong bối cảnh Nhà
nước mới thành lập, khó khăn nhiều mặt, vừa kháng chiến, vừa kiến quốc, phương
tiện thiết bị thông tin liên lạc, cơ sở vật chất còn thiếu thốn, trình độ
nghiệp vụ chuyên môn của cán bộ làm thống kê còn hạn chế, số lượng cán bộ thống
kê ít và mỏng. Song luôn được Đảng và Bác Hồ quan tâm chỉ đạo sát sao, cán bộ
thống kê nhiệt tình hăng say, nên trong thời kỳ đầu kháng chiến chống thực dân
Pháp xâm lược, công tác thống kê đã làm được khá nhiều việc như thường xuyên
kịp thời nắm bắt tình hình và tổng hợp báo cáo thường kỳ về kết quả tăng gia
sản xuất, diệt giặc đói, xoá nạn mù chữ, thống kê giá cả một số sản phẩm chủ
yếu, thực hiện giảm tô, giảm tức thực hiện thuế nông nghiệp v.v… trong vùng tự
do để phục vụ kịp thời yêu cầu chỉ đạo của Chính phủ.
Năm
1954, hoà bình được lập lại trên miền Bắc, tổ chức bộ máy của ngành thống kê
lúc này vẫn còn rất sơ khai, đội ngũ cán bộ từ trung ương đến các địa phương
hầu hết từ cán bộ chính trị và quân đội chuyển sang, chưa biết về nghiệp vụ
thống kê. Nhưng với tinh thần của người chiến sỹ cách mạng, các đồng chí đã vừa
làm vừa học trong thực tế, học hỏi chuyên gia Liên xô, Trung Quốc. Đội ngũ cán
bộ thống kê ban đầu ít ỏi đó đã trưởng thành và phát triển cả về số lượng và
trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đủ sức thực hiện nhiệm vụ chính trị của ngành.
Trong điều kiện xây dựng CNXH ở miền Bắc và tiếp tục cuộc đấu tranh giải phóng
miền Nam, thống nhất Tổ quốc, ngành Thống kê đã căn cứ vào thực tiễn, tiếp thu
kinh nghiệm của thống kê các nước anh em, phát triển công tác trên nhiều mặt.
Phù hợp với yêu cầu và thực tiễn của giai đoạn này, hệ thống chỉ tiêu thống kê
chủ yếu phục vụ công tác kế hoạch hoá và chế độ báo cáo thống kê định kỳ đã
được tập trung xây dựng trên cơ sở thống nhất thống kê, kế toán và chế độ ghi
chép ban đầu. Các cuộc điều tra chuyên đề, điều tra trọng điểm, các cuộc kiểm
kê hàng hoá, vật tư cũng đã được tổ chức để thu thập số liệu phục vụ những yêu
cầu khác nhau của cơ quan quản lý Nhà nước. Trên cơ sở đó, ngành Thống kê đã
cung cấp thông tin cho việc xây dựng kế hoạch, quản lý điều hành và trực tiếp
tham gia đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch Nhà nước theo các cấp từ trung
ương đến các địa phương, từ các Bộ ngành đến các doanh nghiệp.
Sớm
nhận thức được vai trò của cơ giới hoá và tự động hoá công tác tính toán
thống kê, từ đầu những năm 1970, trong ngành thống kê đã từng bước hình thành
một hệ thống các Trung tâm tính toán, tuy máy móc thiết bị còn thô sơ, nhưng đã
phục vụ đắc lực cho việc xử lý số liệu thống kê từ các báo cáo định kỳ đến kết
quả các cuộc điều tra, nhất là đối với các cuộc điều tra lớn như tổng
điều tra dân số, kiểm kê hàng hoá, vật tư v.v…
Trong
thời gian chiến tranh phá hoại ở miền Bắc đất nước chuyển sang thời chiến, đội
ngũ cán bộ thống kê từ trung ương đến các địa phương không ngại gian khổ hy
sinh, bám sát cơ sở, thu thập thông tin, phản ánh kịp thời tình hình kinh tế -
xã hội của hậu phương lớn. Nhiều cán bộ thống kê đã lên đường chi viện cho miền
Nam ruột thịt, trực tiếp tham gia chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ
quốc. Thực hiện nghĩa vụ quốc tế, nhiều cán bộ thống kê cũng đã lên đường chi
viện cho các nước bạn xây dựng và phát triển công tác thống kê.
Năm
1975, miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, cả nước tiến lên
CNXH. Theo yêu cầu của Đảng và Nhà nước trong tình hình mới, cùng với các cơ
quan quản lý Nhà nước, tổ chức bộ máy cơ quan thống kê ở tất cả các tỉnh, thành
phố miền Nam đã nhanh chóng hình thành với nòng cốt là cán bộ thống kê có năng
lực kinh nghiệm từ Tổng cục và các Cục Thống kê miền Bắc, hàng trăm cán bộ mới
đã được tuyển dụng để bố trí vào bộ máy thống kê từ tỉnh, thành phố đến các
quận, huyện ở miền Nam. Với quyết tâm cao, toàn ngành Thống kê đã phấn đấu vượt
mọi khó khăn triển khai công việc, ổn định tổ chức, đã nhanh chóng thu thập và
tổng hợp được số liệu thống kê trên phạm vi cả nước.
Cho
đến trước thời kỳ đổi mới, trong nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, số liệu
thống kê vẫn giữ vai trò chủ yếu, quan trọng trong việc đánh giá tình hình thực
hiện kế hoạch Nhà nước một cách rất chi tiết. Hệ thống số liệu trong thời kỳ
này là căn cứ không thể thiếu để xây dựng và đánh giá kết quả thực hiện các kế
hoạch quý, năm và 5 năm, cũng như để nghiên cứu xây dựng chính sách chiến lược
kinh tế- xã hội của Đảng và Chính phủ.
Bước
sang thời kỳ đổi mới, cán bộ, công chức ngành Thống kê từ trung ương đến các
địa phương đã quán triệt đường lối của Đảng, từng bước đổi mới công tác của
ngành. Từ hệ thống chỉ tiêu thống kê phục vụ cơ chế quản lý, kế hoạch hoá tập
trung với nhiều chỉ tiêu hiện vật, nặng về mô tả, chủ yếu phục vụ cho quản lý
kinh tế vi mô, ngành Thống kê đã nhanh chóng cải tiến hệ thống chỉ tiêu thống
kê, bổ sung nhiều chỉ tiêu giá trị phục vụ quản lý Nhà nước ở tầm vĩ mô và nhiều
nhu cầu thông tin đa dạng khác. Nội dung và phương pháp thống kê được chuyển
đổi từng bước, đặc biệt phải kể đến những vấn đề phương pháp luận quan trọng
như: Chuyển hệ thống phương pháp luận thống kê bảng cân đối vật chất (MPS) sang
hệ thống tài khoản quốc gia (SNA), chuyển đổi phương pháp tính chỉ số giá tiêu
dùng, nghiên cứu và áp dụng chỉ tiêu năng suất, hiệu quả đối với một số ngành
sản xuất chủ yếu và chỉ số nguồn nhân lực, tăng cường áp dụng phương pháp điều
tra chọn mẫu, xây dựng nhiều bảng danh mục theo chuẩn quốc tế, tăng cường thống
kê xã hội, môi trường v..v… Hệ thống chỉ tiêu thống kê ngày một hoàn thiện,
phản ảnh đầy đủ hơn tình hình kinh tế xã hội trong điều kiện, hoàn cảnh mới,
phù hợp với thông lệ thống kê quốc tế, nâng cao tính so sánh của số liệu thống
kê nước ta với các nước trên thế giới. Trong những năm đổi mới, ngành Thống kê
đã tiến hành có kết quả nhiều cuộc điều tra lớn như : Tổng điều tra dân số năm
1989, tổng điều tra dân số và nhà ở năm 1999, tổng điều tra nông nghiệp và nông
thôn năm 1994, tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thuỷ sản năm 2001,
tổng điều tra các cơ sở kinh tế, hành chính sự nghiệp năm 1995 và năm
2002, điều tra đời sống kinh tế hộ gia đình, điều tra vốn đầu tư
phát triển toàn xã hội, điều tra doanh nghiệp, trang trại và nhiều cuộc điều
tra chuyên ngành khác. Nhờ vậy nguồn thông tin thống kê cung cấp ngày càng
phong phú, chất lượng thông tin cao hơn, trình độ kinh nghiệm nghề nghiệp của
cán bộ toàn ngành Thống kê cũng được nâng lên, đánh dấu một bước trưởng
thành của ngành Thống kê trong cơ chế mới.
Để
tăng cường môi trường pháp lý cho công tác thống kê, Pháp lệnh Kế toán và Thống
kê, Nghị định của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thống
kê đã được ban hành trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới. Nhằm tăng cường
hơn nữa môi trường pháp lý cho công tác thống kê ngày 17 tháng 6 năm 2003 Quốc
hội nước CHXHCN Việt Nam đã ban hành Luật Thống kê thay thế cho Pháp lệnh Kế
toán và Thống kê, ngày 13 tháng 2 năm 2004 Chính phủ cũng đã ra Nghị định
số 40/2004/NĐ- CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật Thống kê. Công tác xây dựng, tổ chức và bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ cũng được chú trọng củng cố và phát triển, cơ sở vật chất kỹ thuật
ngành Thống kê được tăng cường đáng kể. Thực hiện Nghị quyết số 49/CP của Chính
phủ về việc phát triển công nghệ thông tin, từ năm 1996 ngành Thống kê đã xây
dựng được một cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin tương đối hiện đại ở cơ
quan Tổng cục và ở nhiều Cục Thống kê. Mạng tin học diện rộng và cơ sở dữ liệu
của ngành đã hình thành, giúp cho việc khai thác số liệu thống kê của các đối
tượng sử dụng được dể dàng, nhanh chóng. Cán bộ thống kê đã từng bước được đào
tạo về công nghệ thông tin. Đa số cán bộ thống kê ở trung uơng và ở các tỉnh,
thành phố đã thường xuyên áp dụng công nghệ thông tin trong xử lý và tổng hợp
số liệu. Hệ thống trang thiết bị đang ngày càng phát huy tác dụng tích cực.
Hợp
tác quốc tế trong lĩnh vực thống kê được tăng cường, góp phần nâng cao vị thế
của thống kê Việt Nam trong cộng đồng thống kê quốc tế. Ngoài việc củng cố quan
hệ với cơ quan thống kê Liên hợp quốc, thống kê ESCAP, thống kê ASEAN, với các
tổ chức quốc tế. Tổng cục Thống kê còn tăng cường các quan hệ hợp tác song
phương với cơ quan thống kê quốc gia các nước như: Trung Quốc, Lào, Thụy Điển,
Pháp, Séc, Ba Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc, các nước thành viên ASEAN và đã đạt được
những kết quả đáng kể. Do tăng cường và mở rộng hợp tác quốc tế, ngành Thống kê
đã tiếp cận, hội nhập và ứng dụng các phương pháp thống kê và điều tra theo
chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Nhờ đó, trong những năm qua, ngành Thống kê đã
nhận được sự giúp đỡ có hiệu quả về kỹ thuật và tài chính của các tổ chức quốc
tế và một số nước như: Chương trình phát triển của Liên hợp quốc, Quỹ dân số,
Quỹ nhi đồng, Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc, Ngân hàng phát
triển Châu Á, Tổ chức Sida Thuỵ Điển v…v…
Hiện
nay, ngành Thống kê Việt Nam đang được tăng cường và phát triển theo định hướng
phát triển của ngành Thống kê đến năm 2010 đã được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt tại Quyết định số 141/2002/QĐ-TTg ngày 21 tháng 10 năm 2002.
Mặt
dù gặp biết bao khó khăn gian khổ, cán bộ công chức toàn ngành Thống kê từ thế
hệ này đến thế hệ khác đã kiên trì phấn đấu xây dựng ngành, đáp ứng yêu cầu
thông tin của Đảng và Nhà nước và của xã hội. Phong trào thi đua trong ngành
được duy trì có nền nếp, đã động viên khuyến khích từng đơn vị, cá nhân hăng
hái phấn khởi hoàn thành nhiệm vụ. Với những thành tích đạt được, ngành Thống
kê đã được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập Hạng nhất vào năm 1996,
nhiều đơn vị và cán bộ thống kê được Nhà nước tặng thưởng nhiều huân chương cao
quý, được Chính phủ tặng nhiều bằng khen và cờ luân lưu.
Có
thể nói gần 60 năm qua, ngành Thống kê đã cố gắng chủ động vượt qua khó khăn
không ngừng vươn lên, đổi mới và nâng cao chất lượng công tác, đạt được bước
phát triển mới. Toàn ngành đã chuyển đổi dần hệ thống chỉ tiêu của cơ chế kế
hoạch hoá tập trung sang hệ thống chỉ tiêu phù hợp với cơ chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Phương pháp thu thập thông tin từng bước được cải tiến
ngày càng phù hợp với cơ chế quản lý mới của nước ta.
Việc
áp dụng công nghệ thông tin kết hợp với ứng dụng có chọn lọc các phương pháp
thống kê quốc tế, các phương pháp phân tích khoa học đã bước đầu phát huy hiệu
quả trong công tác thu thập và xử lý thông tin. Đội ngũ cán bộ thống kê được
đào tạo, nâng cao về trình độ chính trị, chuyên môn, tin học và ngoại ngữ.
Nhìn chung, ngành Thống kê
đã cố gắng đáp ứng yêu cầu về thông tin của các cơ quan Đảng, Chính phủ và cơ
quan quản lý các cấp, các ngành. Thông tin thống kê là cơ sở quan trọng để đánh
giá phân tích và dự báo xu hướng phát triển kinh tế - xã hội của cả nước cũng
như của từng ngành, từng địa phương, góp phần quan trọng vào công tác chỉ đạo,
điều hành của Chính phủ, của các cơ quan trung ương và địa phương. Nhiều tài
liệu thống kê được công bố và xuất bản đã đáp ứng được yêu cầu thông tin
của xã hội.