image banner
Tình hình chỉ số giá tiêu dùng (CPI), chỉ số giá vàng và chỉ số giá đô la Mỹ tháng 9 năm 2021 tỉnh Nghệ An

       Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 bùng phát lần thứ 4 đã ảnh hưởng rất lớn đến đời sống kinh tế - xã hội, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời và quyết liệt của Lãnh đạo tỉnh nên giá cả nhiều mặt hàng ổn định, cụ thể như sau:

CPI tháng 9/2021 tăng 0,14% so với tháng 8/2021; tăng 1,94% so với tháng 9/2020; CPI quý III/2021 tăng 1,93% so cùng kỳ năm 2020; tính chung CPI bình quân 9 tháng năm 2021 tăng 1,34% so với cùng kỳ. Trong 11 nhóm hàng hóa và dịch vụ chính có 8 nhóm nhóm tăng so với bình quân 9 tháng năm 2020 như sau: Hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,56%; đồ uống và thuốc lá tăng 1,25%; may mặc, mũ nón và giày dép tăng 1,85%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,44%; giao thông tăng 7,35%; giáo dục tăng 1,00%; văn hóa, giải trí và du lịch tăng 0,91%; hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,69%. Bên cạnh đó có 2 nhóm giảm là: nhà ở điện nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,22% và nhóm bưu chính viễn thông giảm 0,28%. Có 1 nhóm chỉ số giữ nguyên không thay đổi là nhóm thuốc và dịch vụ y tế.

Tình hình CPI của một số nhóm hàng chính trong tháng 9/2021 so với tháng 8/2021 như sau:

- Nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 0,74%

+ CPI nhóm lương thực tháng 9/2021 tăng 0,40%, trong đó chỉ số giá gạo tăng 0,26% (khu vực thành thị tăng 0,70%; khu vực nông thôn tăng 0,03%). Giá gạo tăng chủ yếu ở khu vực thành thị do dịch Covid-19 diễn biến phức tạp làm nhu cầu tiêu dùng và dự trữ gạo của người dân tăng. Trong tháng, giá gạo tẻ thường dao động từ 10.500-14.500 đồng/kg; giá gạo tẻ ngon từ 12.000-22.000 đồng/kg; giá gạo nếp từ 13.000-33.000 đồng/kg. Bên cạnh đó, giá bột mỳ và ngũ cốc khác tháng 9/2021 tăng 3,65%, giá lương thực chế biến tăng 0,29%;

+ CPI nhóm thực phẩm tháng 9/2021 tăng 0,94%. Trong tháng các địa phương thực hiện Chỉ thị số 15/CT-TTg và Chỉ thị số 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc giãn cách xã hội, người dân hạn chế tối đa ra ngoài, cho nên nhu cầu dự trữ hàng hóa và ăn uống tại nhà nhiều hơn (thực phẩm thiết yếu, rau xanh, sữa, các thực phẩm chế biến từ sữa, thực phẩm chế biễn sẵn, thực phẩm đông lạnh), cụ thể: Giá thịt gia súc tăng 0,60% do các chợ đầu mối và chợ dân sinh trên địa bàn đóng cửa, nguồn cung cấp khan hiếm làm cho giá thịt gia súc tăng, trong đó giá thịt lợn tăng 0,18%; giá thịt tăng 1,69%; Giá thịt tăng 0,07% do giá thức ăn chăn nuôi tăng, giá thịt gia cầm đông lạnh tăng 1,60%. Giá thịt chế biến tăng 1,53% do tâm lý dự trữ đồ ăn chế biến của người dân tăng cao, trong đó giá thịt quay, giò chả tăng 1,52%; giá thịt hộp tăng 1,75%; giá thịt chế biến khác tăng 1,79%; giá trứng các loại tăng 1,10%; giá dầu mỡ ăn và chất béo tăng 0,97%; giá thủy sản tươi sống tăng 0,92% do các tàu thuyền khai thác thủy sản trong tháng hoạt động hạn chế, theo đó giá cá tươi hoặc ướp lạnh tăng 0,85%; tôm tươi hoặc ướp lạnh tăng 1,12%, thủy hải sản tươi sống khác tăng 0,92%; giá thủy hải sản chế biến tăng 0,25%, do tâm lý dự trữ đồ khô của người dân tăng, giá cá khô chế biến sơ chế tăng 0,21%, giá thủy hải sản chế biến khác tăng 0,50%; giá nước mắm, nước chấm tăng 3,35% do tình hình dịch bệnh người dân mua sắm để dự trữ nên giá nước mắm nước chấm tăng cao; giá các loại đậu và hạt tăng 0,22% chủ yếu tăng các loại mặt hàng lạc và vừng; giá rau tươi, khô và chế biến tăng 3,91% do nhu cầu tiêu dùng tăng trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp khiến việc vận chuyển hàng hóa khó khăn, một số chợ đầu mối tạm ngừng hoạt động, nguồn rau về chợ bán lẻ giảm tại một số địa phương đã đẩy giá rau tăng so với tháng trước; giá rau bắp cải tăng 4,30%; cà chua tăng 5,16%; rau muống tăng 5,98%, rau dạng củ, quả tăng 7,22%; rau tươi khác tăng 3,55%; giá đồ gia vị tăng 0,40%; giá bơ, sữa phô mai tăng 0,32%; giá chè, cà phê, ca cao tăng 0,13%;

+ CPI hàng Ăn uống ngoài gia đình giữ nguyên, mặc dù giá lương thực, thực phẩm tăng nhưng trong tháng 9/2021 khi thực hiện chỉ thị 15/CT-TTg, 16/CT-TTg các cửa hàng, nhà hàng phục vụ nhu cầu ăn uống đóng cửa nên chỉ số nhóm ăn uống ngoài gia đình so với tháng trước không thay đổi.

- CPI nhóm đồ uống và thuốc lá tháng 9/2021 tăng 0,25% do công tác phòng chống dịch covid 19 ở địa phương nghiêm ngặt nên nguồn hàng các mặt hàng này được kiểm soát chặt chẽ các phương tiện chở các mặt hàng này gặp khó khăn, grượu các loại tăng 0,42%, bia các loại tăng 0,44% chủ yếu là bia lon tăng 0,75%.

- CPI nhóm hàng May mặc, mũ nón và giày dép giảm 0,10%, do tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp, nhu cầu về các mặt hàng may mặc, mũ nón, giày dép của người dân giảm. Các cửa hàng giảm giá nhằm thu hồi vốn như: quần áo các loại giảm 0,06%, giày dép giảm 0,46%, một số mặt hàng khác có giá không đổi.

- CPI nhóm hàng Nhà ở, điện, nước, chất đốt và vật liệu xây dựng giảm 0,06% do các nguyên nhân sau: Giá điện sinh hoạt giảm 0,65%, nước sinh hoạt giảm 0,44% do thời tiết chuyển sang mùa Thu làm cho không khí mát mẻ hơn nên nhu cầu sử dụng điện, nước của người dân giảm; giá dầu hỏa giảm 1,36% so với tháng 8/2021 do ảnh hưởng của đợt điều chỉnh giá ngày 26/8/2021 và 10/9/2021 làm giá dầu hỏa giảm 210 đồng/lít so với tháng trước; giá nhà ở thuê thực tế giảm 0,03%, do tình hình dịch Covid 19 trên địa bàn diễn biến phức tạp, các chủ nhà trọ chủ động giảm tiền thuê nhà cho các hộ thuê nhà nên giá nhà ở thực tế so với tháng trước giảm 0,03%; giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở tăng 0,06% do giá thép, giá cát, giá xi măng tăng so với tháng trước; giá gas trong tháng tăng 0,82% (+3.000 đồng/bình 12kg) do ảnh hưởng của giá gas thế giới tăng.  

- CPI nhóm hàng thiết bị và đồ dùng gia đình giảm 0,07% do nhu cầu của người dân về các loại thiết bị sử dụng trong gia đình giảm như: máy điều hòa giảm 0,09%, tủ lạnh giảm 0,08%, máy giặt giảm 0,12%, các loại đồ điện trong nhà giảm 0,07%...

- CPI nhóm hàng Thuốc và dịch vụ y tế giữ nguyên vi thực hiện Thông tư số 14/2019/TT-BYT ngày 05 tháng 7 năm 2019 của Bộ trưởng Bộ Y tế sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 37/2018/TT-BYT ngày 30 tháng 11 năm 2018 của Bộ Y tế và Nghị quyết số 17/2019/NQ-HĐND tỉnh Nghệ An ngày 11/11/2019 về Quy định giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh không thuộc phạm vi thanh toán của Quỹ bảo hiểm y tế trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của Nhà nước thuộc tỉnh Nghệ An quản lý giá thuốc và các loại dịch vụ y tế so với tháng trước không đổi.

- CPI nhóm hàng Giao thông giảm 0,82% nguyên nhân do tác động của đợt điều chỉnh giá xăng dầu vào ngày 26/8/2021 và ngày 10/9/2021. Tính bình quân chung giá xăng giảm 0,49% (xăng A95 giảm 1,34%, xăng E5 giảm 1,63%), dầu diezen giảm 1,58%; dầu mỡ nhờn các loại giảm 0,14% so với tháng trước; Dịch vụ bảo dưỡng phương tiện đi lại so với tháng trước không đổi.

- CPI nhóm hàng Bưu chính viễn thông giảm 0,05% chủ yếu các mặt hàng thiết bị điện thoại thông thường giảm 0,20% do các mẫu mã mới điện thoại thay đổi liên tục khiến các loại điện thoại phiên bản cũ giảm giá, giá cước dịch vụ sử dụng ổn định. Bên cạnh đó giá các loại điện thoại thông minh, máy tính bảng tăng 0,14% và các loại phụ kiện cho điện thoại thông minh và máy tính bảng tăng 0,36% do dịch bệnh covid diễn biến phức tạp năm học 2021-2022 trên địa bàn tỉnh học online trực tuyến nên giá các mặt hàng này tăng.

- CPI nhóm hàng Giáo dục tăng 0,04% do nhu cầu mua sắm thiết bị, sách giáo khoa, đồ dùng học tập chuẩn bị cho đầu năm học mới nên nên giá các mặt hàng đồ dùng học tập và văn phòng tăng 0,21% như các mặt hàng: sách giáo khoa tăng 0,39%, văn phòng phẩm và đồ dùng học tập khác tăng 0,35%.

- CPI nhóm văn hóa, giải trí và du lịch tháng 9/2021 giảm 0,02% chủ yếu giá các loại ti vi giảm 0,11%, các loại nhạc cụ giảm 0,11%. Các loại dịch vụ khác trong nhóm này do dịch Covid-19 diễn biến phức tạp nên người dân không đi du lịch vì vậy giá dịch vụ du lịch trọn gói và giá khách sạn, nhà khách không thay đổi so với tháng trước.

- CPI của nhóm hàng hóa và dịch vụ khác tăng 0,04% do mặt hàng chăm sóc cơ thể tăng 0,14%, túi xách, va ly, ví tăng 0,48%. Trên địa bàn Tỉnh thực hiện Chỉ thị 15/CT-TTg và Chỉ thị 16/CT-TTg nên các quán cắt tóc và cửa hàng dịch vụ chăm sóc sắc đẹp tạm ngừng hoạt động nên người dân tự mua đồ về dùng, ngoài ra giá đồ trang sức tăng 1,47% do ảnh hưởng của giá vàng tăng. Một số mặt hàng khác vẫn giữ nguyên không thay đổi so với tháng trước.

- Chỉ số giá vàng tăng 0,04% so với tháng 8/2021; so với tháng 9/2020 giảm 4,11%; so với tháng 12/2020 giảm 3,67%. Bình quân 9 tháng 2021 tăng 11,45% cùng kỳ 2020.

          - Chỉ số giá đô la Mỹ giảm 0,19% so với tháng 8/2021 (từ 25.563 đồng/đô la xuống 25.514 đồng/đô la), so với tháng 9/2020 tăng 10,70%, so với tháng 12/2020 tăng 10,72%. Bình quân 9 tháng 2021 tăng 7,44% cùng kỳ 2020./.
THÔNG BÁO
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1