image banner
TÌNH HÌNH SẢN XUẤT CÔNG NGHIỆP TỈNH NGHỆ AN THÁNG 6 VÀ 6 THÁNG ĐẦU NĂM 2018
         6 tháng đầu năm 2018, sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh Nghệ An đã đạt được mức tăng trưởng lớn. Nhiều dự án sản xuất xuất công nghiệp của các nhà đầu tư có thương hiệu được triển khai và nhanh chóng phát huy hiệu quả như: Nhà máy Tôn Hoa Sen của Tập đoàn Hoa Sen Việt Nam; các Nhà máy Xi măng của Tập đoàn The Vissai  và Tổng công ty Xi măng Việt Nam; các Nhà máy thực phẩm của Tập đoàn Masan; Nhà máy gỗ MDF của Công ty Cổ phần Lâm nghiệp Tháng Năm; các nhà máy sữa của Tập đoàn TH và Vinamilk; các nhà máy may đang được triển khai và mở rộng sản xuất như Nhà máy may Minh Anh, May Mạnh Thành, May MLB Yên Thành, May Nghi lộc …

6 tháng đầu năm 2018, sản xuất công nghiệp trên địa bàn tỉnh Nghệ An đã đạt được mức tăng trưởng lớn. Nhiều dự án sản xuất xuất công nghiệp của các nhà đầu tư có thương hiệu được triển khai và nhanh chóng phát huy hiệu quả như: Nhà máy Tôn Hoa Sen của Tập đoàn Hoa Sen Việt Nam; các Nhà máy Xi măng của Tập đoàn The Vissai và Tổng công ty Xi măng Việt Nam; các Nhà máy thực phẩm của Tập đoàn Masan; Nhà máy gỗ MDF của Công ty Cổ phần Lâm nghiệp Tháng Năm; các nhà máy sữa của Tập đoàn TH và Vinamilk; các nhà máy may đang được triển khai và mở rộng sản xuất như Nhà máy may Minh Anh, May Mạnh Thành, May MLB Yên Thành, May Nghi lộc …

Tính đến ngày 15/6/2018, trên địa bàn tỉnh Nghệ An có 898 doanh nghiệp được cấp mới giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, tăng 12,39% so với cùng kỳ; Tổng vốn các doanh nghiệp đăng ký đạt 5.463,4 tỷ đồng, tăng 20,9% so với cùng kỳ, bình quân khoảng 6,08 tỷ đồng/doanh nghiệp; đồng thời có 246 doang nghiệp đăng ký hoạt động trở lại sản xuất kinh doanh; Số Doanh nghiệp giải thể trong 6 tháng đầu năm là 54 doanh nghiệp, nhiều hơn so với cùng kỳ 17 doanh nghiệp.

- Chỉ số sản xuất Công nghiệp tỉnh Nghệ An tháng 6/2018 ước bằng 95,19% so với tháng 5/2018. Trong đó:

+ Ngành công nghiệp khai khoáng bằng 102,36% so với tháng 5/2018. Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp khai khoáng tăng chủ yếu do sản lượng Quặng thiếc tăng, đạt 106,67% so với tháng trước; Đá xây dựng khác đạt 100,34%.

+ Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo ước bằng 92,67% so với tháng trước. Nguyên nhân giảm do thị trường tiêu thụ thấp, một số nhà máy đã hoạt động ổn định như quần áo dệt kim ước bằng 69,11% so với tháng trước; Vỏ bào gỗ dăm bằng 70,48%; Bê tông tươi bằng 51,92%; Xi măng bằng 86,60%... Bên cạnh một số sản phẩm sản xuất ra có sản lượng tăng như: Quần áo không dệt kim bằng 168,47% so với tháng 5/2018; Thức ăn gia súc bằng 148,71%; Năp lon bia bằng 145,74%; Ống thép Hoa Sen bằng 125,70%; Bia chai bằng 125,56%; Loa bằng 119,74%; Bao bì bằng giấy bằng 118,60%.

+ Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí bằng 104,98% so với tháng 5/2018. Sản lượng điện sản xuất trong tháng 6 ước bằng 107,69% so với tháng trước; điện thương phẩm ước bằng 100,88%.

+ Ngành Cung cấp nước, quản lý và xử lý nước thải, rác thải ước bằng 106,89% so với tháng 5/2018.Trong đó, Nước máy ước bằng 105,49%; Dịch vụ thu gom rác thải ước bằng 107,31%; Dịch vụ làm sạch bể phốt ước bằng 118,77%.

- Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 6/2018 tăng 12,61% so với cùng kỳ:

+ Ngành Công nghiệp khai khoáng giảm 24,83% so với cùng kỳ. Nguyên nhân giảm chủ yếu do ngành khai thác quặng đang gặp khó khăn về tài nguyên ngày càng cạn kiệt, đơn giá đền bù đất đai, hoa màu cao, nhiều doanh nghiệp vỡ nợ đã tạm ngừng hoạt động và chuyển sang lĩnh vực khác. Sản phẩm Đá xây dựng ước đạt 253,8 nghìn m3, giảm 55,16% so với cùng kỳ; Sản phẩm quặng thiếc đạt 19,2 tấn, giảm 9,60%; Đá xây dựng qua chế biến ước đạt 80,2 nghìn m3, giảm 7,50%.

- Công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 14,73% so với cùng kỳ. Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng do một số nhà máy đi vào hoạt động ổn như sản phẩm Xi măng ước đạt 400 nghìn tấn, tăng 95,99% so với cùng kỳ; Tôn lợp ước đạt 73,05 nghìn tấn, tăng gấp 53,15%; Thép cán nóng ước đạt 692 tấn tăng 37,78%. Bên cạnh đó một số doanh nghiệp nhận được đơn hàng như: Sản phẩm in đạt 557,3 triệu trang, tăng 44,07%; Bột đá đạt 46,7 nghìn tấn, tăng 32,41%;Vỏ bào dăm gỗ đạt 27,7 nghìn tấn, tăng 23,08%. Do nguyên liệu đầu vào lớn sản phẩm sữa chua ước đạt 3,2 nghìn tấn, tăng 58,56%; sữa tươi đạt 13,7 triệu lít, tăng 32,52%.

Một số sản phẩm sản xuất ra giảm như: Quần áo dệt kim ước đạt 261,8 nghìn cái, giảm 27,27%; Loa đạt 8,9 triệu cái, giảm 22,60%; Bia lon đạt 8,6 triệu lít, giảm 10,76%; Ống thép Hoa Sen đạt 4,5 nghìn tấn, giảm 7,37%; Thiếc thỏi ước đạt 33 tấn, giảm 66,53% do ảnh hưởng của ngành khai thác khoáng sản.

- Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí tăng 3,26% so với cùng kỳ. Điện sản xuất ước đạt 211,9 triệu KWh, tăng 6,57% so với cùng kỳ; Điện thương phẩm ước đạt 275 triệu KWh, tăng 0,06%.

- Ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý nước thải, rác thải tăng 15,63% so với cùng kỳ. Trong đó: Sản phẩm Nước máy ước đạt 2,6 triệu m3 tăng 5,91%; Dịch vụ làm sạch bể phốt ước đạt 2,7 tỷ đồng, tăng gấp 15 lần; Dịch vụ thu gom rác thải ước đạt 6 tỷ đồng, tăng 7,82%.

- Chỉ số phát triển sản xuất công nghiệp 6 tháng đầu năm 2018

Tính chung 6 tháng đầu năm, chỉ số sản xuất công nghiệp tăng 17,81% so với cùng kỳ năm trước. Cụ thể chỉ số sản xuất các ngành như sau:

+ Công nghiệp khai khoáng giảm 11,2%. Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp khai khoáng giảm do tài nguyên khoáng sản ngày càng cạn kiệt, khai thác ngày càng khó khăn, đơn giá đền bù đất đai, hoa màu cao dẫn đến giá thành sản xuất ngày càng cao, nhiều doanh nghiệp vỡ nợ, nợ thuế đã tạm ngừng hoạt động và chuyển sang kinh doanh lĩnh vực khác. Sản phẩm Quặng thiếc khai thác ước đạt 113,3 tấn, giảm 14,63% so với cùng kỳ; đá xây dựng qua chế biến ước đạt 404,5 nghìn m3, giảm 17,57%; Đá xây dựng ước đạt 1.387,2 nghìn m3, giảm 15,60%.

+ Công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 19,41% so với cùng kỳ. Chỉ số sản xuất ngành công nghiệp chế biến tăng cao do một số nhà máy đã đi vào hoạt động ổn định bên cạnh đó thời tiết lạnh từ đầu năm phù hợp cho đàn bò tạo sữa nên nguồn nguyên liệu dồi dào cho nhà máy sữa TH chạy hết công suất. Tôn ước đạt 418,8 nghìn tấn, tăng gấp 2,8 lần so với cùng kỳ; Xi măng đạt 2.142,1 nghìn tấn, tăng 87,14%; Bột đá đạt 318,2 nghìn tấn, tăng 63,94%; Thép cán nóng đạt 3,7 nghìn tấn, tăng 47,62%; Sữa chua đạt 16,1 nghìn tấn, tăng 48,98%; Sữa tươi đạt 95 triệu lít, tăng 25,12%…

Một số sản phẩm có mức tăng trưởng thấp và giảm do mức tiêu thụ giảm, lượng hàng tồn kho lớn nên các nhà máy hạn chế sản xuất để tiêu thụ sản phẩm như: Bao bì bằng giấy ước đạt 16,2 triệu chiếc, giảm 32,98% so với cùng kỳ; Ống thép ước đạt 19,7 nghìn tấn, giảm 30,39%; Loa ước đạt 51,9 triệu cái, giảm 29,58%; Phân NPK đạt 29,9 nghìn tấn, giảm 23,16%; Vỏ bào gỗ dăm đạt 197,1 nghìn tấn, giảm 22,63%; Thức ăn gia súc ước đạt 52,5 nghìn tấn, giảm 22,52%...

+ Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước, và điều hòa không khí tăng 11,39% so với cùng kỳ. Điện sản xuất ước đạt 1.074,3 triệu KWh tăng 13,36%; Sản lượng Điện thương phẩm ước đạt 1.462,1 triệu KWh, tăng 9,84%.

+ Ngành cung cấp nước, quản lý và xử lý nước thải, rác thải tăng 12,09% so với cùng kỳ. Trong đó sản phẩm Nước uống được đạt 13,6 triệu m3, tăng 4,61%, Dịch vụ làm sạch bể phốt ước đạt 10,4 tỷ đồng, tăng gấp 12,6 lần; Dịch vụ thu gom rác thải ước đạt 31,3 tỷ đồng, tăng 11,09%./.


Nguồn: Phòng Thống kê Công nghiệp - Xây dựng, Cục Thống kê Nghệ An


Một ca sản xuất của Nhà máy may Vinatex Hoàng Mai


Phối cảnh tổng thể Dự án Xi măng Tân Thắng với công suất 5.000 tấn clinker/ngày tương đương 1,96 triệu tấn xi măng/năm được đầu tư xây dựng tại xã Tân Thắng, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An với tổng mức đầu tư 4.086 tỷ đồng. Dự kiến nhà máy sẽ đi vào vận hành vào đầu năm 2020


THÔNG BÁO
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
image advertisement
Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1